Ngày 06/3/2020 UBND huyện Hiệp Đức hội nghị (trực tuyến) tổng kết Chương trình giảm nghèo năm 2019. Phó Chủ tịch UBND huyện- Nguyễn Đức Thọ chủ trì hội nghị. Tham dự tại đầu cầu trực tuyến huyện có: Đại diện lãnh đạo Sở LĐ-TB&XH; Thường trực Huyện ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN, HĐ TĐKT; thành viên BCĐ Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững và các cơ quan liên quan. Tại đầu cầu trực tuyến cấp xã có: Thường trực Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ, lãnh đạo Hội đoàn thể liên quan.
Chương trình giảm nghèo bền vững là chương trình quan trọng, nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện đời sống, tăng thu nhập của người dân. Xác định được tầm quan trọng đó, ngay từ đầu năm, trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của cấp trên, huyện Hiệp Đức đã kịp thời củng cố Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên BCĐ; xây dựng kế hoạch phân công cán bộ, công chức, đảng viên theo dõi, hướng dẫn, giúp đỡ hộ nghèo vươn lên thoát nghèo; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân lồng ghép các chương trình, dự án giảm nghèo với các phong trào thi đua của từng hội, đoàn thể để tổ chức thực hiện.
Trong năm 2019, có nhiều nguồn vốn đã đầu tư cho chương trình giảm nghèo trên địa bàn huyện như: Vốn Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững (5.353,97 triệu đồng); vốn Chương trình MTQG XDNTM (130.280 triệu đồng); các chính sách giảm nghèo chung do Nhà nước hỗ trợ; chính sách hỗ trợ đặc thù của tỉnh Quảng Nam và các nguồn lực khác…Từ các nguồn lực hỗ trợ huyện đã tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng, trường lớp học, hỗ trợ phát triển sản xuất, cho vay vốn tín dụng ưu đãi, thực hiện đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, khám chữa bệnh, học tập... Kết quả đã hỗ trợ làm nhà ở cho 101 trường hợp, số tiền 4.127,5 triệu đồng; tư vấn, giới thiệu việc làm cho 1.100 lao động; đào tạo nghề cho 228 lao động; xuất khẩu lao động 63 trường hợp; tư vấn trợ giúp pháp lý cho 102 trường hợp; mua cấp miễn phí trên 12.500 thẻ BHYT cho người nghèo, cận nghèo, người đang sinh sống tại xã, thôn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, người cao tuổi, đối tượng BTXH, hộ thoát nghèo bền vững... với số tiền hơn 9.595,67 triệu đồng (trong đó có 2.096 thẻ cấp cho người thoát nghèo, thoát cận nghèo bền vững, với số tiền 1.767,7 triệu đồng); hỗ trợ khám chữa bệnh và tiền ăn cho 6.305 lượt hộ nghèo với số tiền trên 4.364,5 triệu đồng; thực hiện miễn, giảm học phí cho hơn 1.610 học sinh với số tiền hơn 115,5 triệu đồng; hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP, Nghị định số 116/2016/NĐ-CP và Nghị định số 06/2018/NĐ-CP cho 3.131 lượt học sinh với số tiền hơn 2.981 triệu đồng; hỗ trợ tiền điện cho 6.329 lượt hộ nghèo, hộ chính sách xã hội, số tiền 1.025,78 triệu đồng (trong đó: hộ nghèo: 6.148 lượt hộ/996,18 triệu đồng); xét cho 1.611 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn với số tiền 69.874 triệu đồng…
Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể từ huyện đến cơ sở đã tập trung tuyên truyền, vận động hội, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước… đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao chất lượng các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; tiếp tục giữ vững các phong trào “Giúp nhau giảm nghèo”; “Xây dựng nhà tình thương”; “Xây dựng nhà tình nghĩa đồng đội”; “Đoàn TN tham gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020”; “Chương trình trao sinh kế cho hội viên phụ nữ” thuộc hộ nghèo; “Tiếp sức cho em đến trường"; "Trao học bổng cho học sinh nghèo vượt khó học giỏi"; hỗ trợ con giống, phương tiện sản xuất cho hộ nghèo... với tổng kinh phí trên 1.322 triệu đồng; phối hợp tư vấn, giới thiệu việc làm cho trên 1.300 đoàn viên, hội viên. Phối hợp với các cơ quan chuyên môn tổ chức 50 lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có hiệu quả cho các hội, đoàn viên.
Từ những hoạt động trên, đã góp phần tích cực cho sản xuất phát triển, tạo việc làm, sinh kế và nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần đáng kể vào kết quả giảm nghèo bền vững trên toàn huyện. Qua tổng kết 2019, toàn huyện còn 1.255 hộ nghèo (giảm 308 hộ nghèo so với năm 2018, vượt chỉ tiêu tỉnh giao 08 hộ), chiếm tỷ lệ 10,62%. Hộ cận nghèo còn 410 hộ (giảm 89 hộ so với năm 2018), chiếm tỷ lệ 3,47%. Có 2 xã tỷ lệ hộ nghèo dưới 5% và được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới là xã Hiệp Hòa, Bình Sơn, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới toàn huyện lên 06 xã. Địa phương có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất là thị trấn Tân An 2,99%.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế, đó là: Công tác thông tin, tuyên truyền, triển khai một số cơ chế chính giảm nghèo chưa sâu kỹ. Nhận thức của một bộ phận người dân trong tự lực vươn lên thoát nghèo chưa cao, vẫn còn tâm lý trông chờ, ỷ lại, chưa muốn thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo còn chênh lệch lớn giữa các xã trong huyện; các mô hình giảm nghèo có hiệu quả và mang tính bền vững chưa nhiều và chưa nhân ra diện rộng. Một số địa phương chưa quan tâm rà soát hộ nghèo thường xuyên; Có một số cơ quan, đơn vị chưa thực hiện tốt kế hoạch giúp đỡ hộ nghèo...
Trong năm 2020, huyện đề ra mục tiêu phấn đấu giảm hộ nghèo ít nhất 250 hộ; giảm hộ cận nghèo giảm ít nhất 200 hộ; 100% hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ thoát nghèo có nhu cầu và đủ điều kiện đều được vay vốn; 100% người nghèo trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và có nhu cầu học nghề được đào tạo nghề; 100% người nghèo trong độ tuổi lao động không có việc làm được tư vấn giới thiệu việc làm và hướng đến có việc làm ổn định.
Để đạt được các mục tiêu trên, huyện đã đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần phải tập trung thực hiện, nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo, góp phần hoàn thành mục tiêu chung mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2015-2020) đã đề ra. Trong đó, chú trọng nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cấp, các ngành trong thực hiện công tác giảm nghèo bền vững, đưa nội dung giảm nghèo vào nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Đẩy mạnh công tuyên truyền quan điểm, chủ trương, chính sách giảm nghèo của Đảng, Nhà nước đến từng hộ dân cư, nhất là Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững, chính sách khuyến khích thoát nghèo bền vững theo Nghị quyết số 13 của Hội đồng nhân dân tỉnh để mọi người hiểu, thay đổi cách nghĩ, cách làm, vươn lên thoát nghèo bền vững. Tiếp tục tạo môi trường thuận lợi để thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn huyện, khai thác tiềm năng thế mạnh của huyện. Ưu tiên các nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng, các điều kiện phục vụ sản xuất và dân sinh, nguồn vốn vay, đào tạo nghề, tạo việc làm… cho vùng thuộc chương trình 135, xã, thôn đặc biệt khó khăn. Tổ chức nhân rộng các mô hình làm ăn có hiệu quả, mô hình giảm nghèo, nhằm nâng cao giá trị sản xuất, giải quyết lao động tại chỗ, tăng thu nhập cho người dân. Thực hiện tốt việc quy hoạch, sắp xếp, bố trí dân cư phù hợp với điều kiện địa hình, kinh tế, văn hóa của từng địa phương theo tinh thần Nghị quyết 05-NQ/TU của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 12/2017/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam, góp phần ổn định cuộc sống của người dân. Thực hiện tốt chính sách đào tạo nghề, tư vấn giới thiệu việc làm theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 3577/QĐ-UBND của UBND tỉnh Quảng Nam và xuất khẩu lao động. Tiếp tục thực hiện tốt Kế hoạch phân công các cơ quan đơn vị, các xã, thị trấn, CB, CC, VC, NLĐ, đảng viên theo dõi, hướng dẫn giúp đỡ hộ nghèo giai đoạn 2019-2020 và thực hiện tốt việc phân loại theo từng nhóm hộ nghèo để có giải pháp hỗ trợ phù hợp, nhằm giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo vươn lên thoát nghèo, thoát cận nghèo. Chỉ đạo công tác điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm và thường xuyên đảm bảo chính xác, đúng quy định. Thực hiện tốt nguyên tắc dân chủ, công khai các chính sách giảm nghèo để nhân dân biết. Từng cấp, từng ngành căn cứ chức năng, nhiệm vụ tập trung thực hiện tốt chương trình giảm nghèo gắn với việc xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh để góp phần phát triển kinh tế, xã hội và giảm nghèo bền vững./.
Mai Hiền